Nguyễn Thông tên thật là Nguyễn Thới Thông, tên chữ là Hy Phần, hiệu là Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am, sinh năm 1827 trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Bình Thanh - tổng Thạnh Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, Gia Định (nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An).
Thuở nhỏ, Nguyễn Thông nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm 18 tuổi, ông được gia đình gửi ra Huế để có điều kiện học tập tốt hơn. Năm 1849, ông đỗ Cử nhân trong kỳ thi Hương tại trường thi Gia Định, nhưng khi thi Hội bài vấy mực nên bị đánh hỏng. Nguyễn Thông bắt đầu cuộc đời quan trường năm 1851 với chức Huấn đạo huyện Phú Phong, tỉnh An Giang.
Tháng 2/1859, khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông tòng quân vào Nam chiến đấu và trở thành trợ thủ đắc lực của Thống đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Hiệp. Sau khi đại đồn Kỳ Hòa thất thủ (2/1861), ông về Tân An hoạt động chống Pháp cùng với các thủ lĩnh nghĩa quân địa phương như: Phan Văn Đạt, Trịnh Quang Nghị.
Năm 1862, triều đình Huế cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho thực dân Pháp, Nguyễn Thông được Kinh lược sứ Phan Thanh Giản đề cử giữ chức Đốc học Vĩnh Long và giữ chức vụ này từ năm 1863 đến tháng 7/1864. Thời gian đó, ông đã cho xây dựng lại Văn Thánh miếu Vĩnh Long và đồng thời liên lạc chặt chẽ với các tổ chức chống Pháp. Dưới danh nghĩa Đốc học Vĩnh Long, Nguyễn Thông còn tổ chức cải táng hài cốt Xử sĩ Võ Trường Toản từ Chí Hòa về Ba Tri.
Năm 1867, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ bị Pháp xâm chiếm, ông cùng với nhiều sĩ phu Nam Kỳ không chịu hợp tác với giặc, nên đã tị địa ra tỉnh Bình Thuận. Năm 1867, Nguyễn Thông được cử làm án sát Khánh Hòa rồi án sát Quảng Ngãi. Thời gian này, ông dâng lên vua Tự Đức 4 bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia. Tuy nhiên, tất cả kế sách của ông đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần không cùng chính kiến trong triều.
Năm 1870, ông tham gia chấm thi Hương ở trường Thừa Thiên rồi làm Biện lý bộ Hình, Bố chánh Quảng Ngãi. Ở đây, Nguyễn Thông đã tích cực thi hành những biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này đã đụng chạm tới quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy, không lâu sau ông bị cách chức, tống giam và bị xử trượng, sau nhờ dân chúng kêu oan tới vua, mới được giải tội.
Năm 1873, ông xin về dưỡng bệnh tại Bình Thuận, kết bạn cùng các thân hào trí thức địa phương, đồng thời thực hiện các hoạt động khai khẩn đất đai còn hoang vu.
Năm 1874, Triều đình cho phục chức, bổ nhiệm ông làm việc tại bộ Lễ nhưng khi đến Huế, ông bị bệnh nên phải cáo quan trở về.
Năm 1876, ông lại được triệu về kinh, giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Thời gian này, ông cùng với các quan trong triều như: Bùi Ước, Hoàng Duy Tân khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, nhân đó soạn Việt sử cương giám khảo lược.
Năm 1877, triều đình chấp thuận kế hoạch khai hoang vùng La Ngư, Ba Dầu nên cử ông về làm doanh điền sứ Bình Thuận.
Năm 1878, bệnh cũ tái phát, ông xin nghỉ dài hạn. Năm 1880, Nguyễn Thông được mật chỉ cùng với các quan địa phương xử vụ nổi dậy của người thiểu số, xử vụ lưu dân từ trong Nam ra. Cũng năm này, ông thành lập Đồng Châu xã và xây dựng Ngọa Du Sào để có nơi làm thơ, đọc sách.
Năm 1881, Nguyễn Thông được bổ nhiệm làm Phó sứ điển nông kiêm Đốc học tỉnh Bình Thuận. Năm sau ông được thăng làm Hồng lô tự khanh. Năm 1883, kinh thành thất thủ, vua Tự Đức băng hà, ông ra Huế thọ tang vua.
Ngày 27/8/1884, Nguyễn Thông mất tại Ngọa Du Sào - Phan Thiết (Bình Thuận), nơi sau này các con ông là Nguyễn Quý Anh và Nguyễn Trọng Lội đã tiếp nối truyền thống, thành lập Dục Thanh học hiệu mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã ghé dạy học (3-1909) trên đường vào Nam tìm đường cứu nước.
Về mặt trước tác, Nguyễn Thông để lại nhiều tác phẩm giá trị như: Kỳ Xuyên văn sao, Kỳ Xuyên công độc, Ngọa Du Sào văn tập, Việt sử cương giám khảo lược. Theo nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 221, Nguyễn Thông còn là tác giả sách “Kỳ Xuyên thi sao” mới tìm thấy ở miền Nam.
Cuộc đời hoạt động và trước tác của Nguyễn Thông để lại đã khẳng định ông là một nhà hoạt động văn hóa lớn, một trí thức lớn đã thể hiện tấm lòng yêu nước một cách trọn vẹn trong thời kỳ lịch sử đầy biến động ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Nguyễn Thông an nghĩ vĩnh viễn trên quê hương thứ hai Bình Thuận, nhưng nơi sinh ra ông, tên ông đã thành tên đường , tên trường học.Khu vườn nhà ông nay là khu lưu niệm.Đó là một quần thể (rộng 543m2) gồm công trình bia lưu niệm ( xây dựng năm 1984 nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất Nguyễn Thông), nền nhà cũ, mộ phần của bà nội và song thân của Nguyễn Thông bằng đá ong (laterit).
Đặc biệt tại đây còn một bia đá cẩm thạch do chính ông tạo lập năm 1868, loại bia một mặt có kiểu dáng và trang trí mang phong cách mỹ thuật thời Nguyễn. Nội dung bia xác định vị trí các ngôi mộ, năm sinh ,năm mất và một bài minh ca ngợi công đức thân sinh ông là Nguyễn Hanh.
Ngày nay,''Khu lưu niệm Nguyễn Thông'' là địa điểm tham quan ,thăm viếng, là địa chỉ về nguồn của học sinh, sinh viên. Bia đá do ông lập là di sản quí ở địa phương,là tư liệu góp phần tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Thông. Đồng thời, là những di sản quý giá giúp cho thế hệ hiện tại và tương lai tự hào, kế thừa, phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước của dân tộc mà ông chính là một trong những tấm gương tiêu biểu.
Khu lưu niệm Nguyễn Thông đã được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích quốc gia theo Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT ngày 19/1/2001./.